1. Phân loại Chiêm tinh học
Hình thái chủ yếu của chiêm tinh học dưới thời Hy Lạp, đồng thời được phổ biến rộng rãi dưới Đế chế La Mã là tinh mệnh học (genethlialogy). Thuật ngữ này nghe có vẻ xa lạ, nhưng cả lý thuyết và phương thức thực hành lại khá giống với chiêm tinh học hoàng đạo như tiêu chuẩn ngày nay.
Tinh mệnh học có nghĩa là khoa học nghiên cứu “mệnh”, tập trung chủ yếu vào các tinh tượng trên bầu trời tại thời điểm một người sinh ra, hoặc trong một số trường hợp hiếm gặp là tại thời điểm thụ thai (nếu không biết rõ thì được mặc định là 9 tháng trước khi sinh). Tinh mệnh học dựa vào tinh tượng để tiên đoán số mệnh, vận may, cũng như là tính cách của người đó. Vì vậy, lá số sinh ngày nay về cơ bản chính là “khởi nguyên” trong cách gọi của người Hy Lạp (genesis). Người ta đã khôi phục được rất nhiều lá số sinh gốc từ thời cổ đại (hầu hết là các mảnh giấy papyrus bị vùi lấp dưới lớp cát khô ở Ai Cập). Trong đó một số trường hợp điển hình được ghi lại trong những cuốn sổ tay chiêm tinh vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Nội dung chủ yếu của chúng là về tinh mệnh học, hay về cái mà họ gọi là “kết quả” (apotelesmata): Nếu tại thời điểm ra đời xuất hiện hiện tượng X thì cuộc đời người đó sẽ có những kết quả Y.
Trong số các hình thái khác nhau của chiêm tinh học thời cổ đại, chiêm tinh tổng quát sử dụng phương pháp tinh mệnh học để tiên đoán cho tập thể (dân tộc, thành phố, v.v.) hơn là cá nhân. Chiêm tinh Catarchic có tên gọi bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “sự bắt đầu”, nghiên cứu các thời điểm thuận lợi theo chiêm tinh học để khởi sự kinh doanh. Chiêm tinh khởi sự có phương pháp ngược lại so với tinh mệnh học. Thay vì dựa vào tinh tượng để dự đoán kết quả, chiêm tinh khởi sự lại dựa vào một kết quả muốn có để tìm kiếm những tinh tượng có thể mang lại kết quả đó.
Chiêm tinh học tham vấn đưa ra dự đoán về kết quả bằng việc tham khảo tinh tượng tại thời điểm hiện tại. Mục dự báo chiêm tinh trên báo được xếp vào loại này. Bởi vì một dự báo đơn nhất không thể vừa tạo được sự tín nhiệm lại đúng với mọi trường hợp được, vậy phải làm sao để có thể đưa ra dự báo chuẩn xác cho tất cả? Cách mà các chuyên mục dự báo này đưa ra là chia dự báo hàng ngày theo chòm sao hoàng đạo – từ chỉ vị trí của mặt trời trong lá số mỗi người tại thời điểm họ sinh ra. Để tính được dấu hiệu mặt trời của mình, bạn cần biết ngày sinh, tháng sinh (không quan trọng năm sinh). Ví dụ, tôi sinh vào ngày 11 tháng 1, như vậy tôi thuộc chòm Ma Kết. Có tất cả 12 chòm sao hoàng đạo khác nhau dành cho mọi người.
Hình thái cổ xưa nhất của chiêm tinh học chính là chiêm tinh điềm báo. Trong chiêm tinh học Hy Lạp, mặc dù chiêm tinh điềm báo chỉ đóng một vai trò rất nhỏ, nhưng nó lại tồn tại được khá lâu. Điều đó chứng tỏ chiêm tinh học Hy Lạp có sự phụ thuộc vào chiêm tinh học của người Babylon. Chúng ta sẽ thấy rằng chiêm tinh học Hy Lạp chính là hậu duệ của chiêm tinh học Babylon. Khác với chiêm tinh học hoàng đạo, chiêm tinh học điềm báo thiếu vắng hẳn một hệ thống toàn diện để liên kết các tinh tượng thực tế và tiềm năng trên một khung tham chiếu đơn nhất. Chiêm tinh học hoàng đạo xét đến vị trí của các thiên thể trong mối tương quan với nhau và với trái đất. Như đã nói đến trong chương 1, dự đoán về kết quả được quyết định bởi góc chiếu giữa các vì sao và hành tinh, chứ không phải dựa trên bản thân chúng. Chiêm tinh học điềm báo chủ yếu nghiên cứu các hiện tượng cụ thể và ít thường xuyên hơn, đặc biệt là những hiện tượng cao trào như nguyệt thực. Do người cổ đại không thể phân biệt giữa vũ trụ và bầu khí quyển của Trái Đất từ góc độ khoa học nên họ đã đưa cả những hiện tượng khí quyển, ví dụ như sấm, vào xếp chung với các tinh tượng đúng nghĩa trong chiêm tinh học điềm báo.
2. Chiêm tinh học Babylon
Chiêm tinh học điềm báo của Hy Lạp đưa chúng ta tìm về với cội nguồn của chiêm tinh học ở Babylon, cho dù việc các bản ghi chép của người Hy Lạp có được bắt nguồn từ nơi đây hay không. Điềm báo từ tiếng sấm mà tôi đã trích dẫn bên trên rất giống với những dự báo được ghi lại từ thiên niên kỷ thứ 2 TCN trong chiêm tinh học điềm báo Babylon. Các sự kiện được dự báo trước trong chiêm tinh học này phần lớn thuộc phạm vi cộng đồng và hoàng tộc như chiến loạn và hòa bình, phản loạn và thái bình, được mùa và sung túc, mất mùa và nạn đói. Điều này đưa chúng ta tìm đến các nhà chiêm tinh Babylon; họ là những nhà quan sát, nhà biên soạn, nhà phân tích và nhà tính toán với công việc chính là quan sát bầu trời, phân tích dữ liệu và nghiên cứu để tính toán quy luật chuyển động và sự thay đổi vị trí của mặt trời, mặt trăng cùng các hành tinh khác theo thời gian.
Các nhà chiêm tinh Babylon là các nhân viên công vụ. Công việc chính của họ là tham vấn cho triều đình về chỉ dẫn đến từ những vì sao và tiên đoán tương lai dựa trên sự tương tác giữa nhiều hành tinh. Người ta càng biết nhiều về quy luật và tần suất chuyển động của các thiên thể thì càng có thể đưa ra những dự đoán về tương lai xa hơn và chính xác hơn nhờ vị trí và sự tương tác giữa hành tinh. Từ đó, bằng hiểu biết căn bản về chuyên môn, các nhà chiêm tinh học dần trở thành những nhà thiên văn học. Điều này không hề phủ nhận rằng chính những sự ham học hỏi không vụ lợi, hay còn gọi là tinh thần nghiên cứu khoa học, vào một lúc nào đó, đã đi vào trong chiêm tinh của người Babylon. Hoặc là những thành tựu thiên văn của họ là quá tiên tiến, quá chính xác và phát triển quá mạnh mẽ, vượt trên cả yêu cầu căn bản của công việc.
Mặc dù không phải là một trong số các chức năng chính của chiêm tinh học theo quan niệm hiện đại ngày nay, nhưng một chức năng khác mà chúng ta cần nhắc đến, điều tạo ra động lực cho các nhà nghiên cứu chiêm tinh, đó là quy ước về lịch. Việc nghiên cứu các vì sao vẫn luôn là cần thiết với mục đích điều chỉnh thời gian, đặc biệt nghiên cứu về mặt trời và mặt trăng bởi thời gian được tính dựa trên hai hành tinh này. Ngày và năm được tính bởi mặt trời; còn tháng thì tính bởi mặt trăng. Con người vẫn luôn mong muốn có được một bộ lịch dân dụng đáng tin cậy; bởi lẽ bạn không thể thanh toán tiền thuê nhà đúng thời hạn, nếu như cả bạn và người chủ cho thuê không biết khi nào thì là “đúng thời hạn” đây? Còn một lý do cho tầm quan trọng của việc điều chỉnh lịch cho chuẩn xác: bộ lịch chính là lời nhắc nhở của những vị thần, có lẽ họ sẽ không vui nếu chỉ vì không nắm được thời gian mà ta kỷ niệm các ngày lễ của họ sai ngày.
Việc điều chỉnh lịch là không hề dễ dàng, thậm chí đặc biệt khó với người Babylon và đại đa số người cổ đại vẫn quen sử dụng lịch mặt trăng. Họ tính toán chu kỳ thực của các giai đoạn mà mặt trăng sẽ trải qua, bắt đầu từ trăng lưỡi liềm vào ban đêm, trăng non, trăng tròn và sau đó là quay trở lại như lúc đầu. Người Babylon đã giải quyết được 2 vấn đề chính. Vấn đề thứ nhất, dự đoán khi nào trăng sẽ xuất hiện lần đầu tiên trong chu kỳ, và từ đó tính được ngày bắt đầu của tháng thông qua một loạt biến số toán học được phân tích bởi các nhà thiên văn. Vấn đề nằm ở chỗ, 12 tháng tính theo mặt trăng lại ngắn hơn so với khoảng thời gian một năm tính theo mặt trời là khoảng 11 ngày. Do vậy, nếu muốn cho 12 tháng này có thể vừa khớp với khoảng thời gian tương ứng của một năm thì cần phải thêm vào đó một vài khoảng thời gian giao hội, hay còn gọi là tháng giao hội thứ 13. Việc cho thêm một tháng nữa vào không phải là một giải pháp hay; hơn nữa, còn cần có một công thức đáng tin cậy để có thể tính toán các khoảng thời gian thêm vào sao cho các chu kỳ này có thể lặp lại một cách tuần hoàn trong tương lai. Giải pháp được đưa ra đó là sử dụng chu kỳ mặt trăng 19 năm, được áp dụng một cách hệ thống ở Babylon trong lịch dân dụng vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4 TCN. Sau khi nhận thấy rằng 19 năm mặt trời thì tương đương với 235 tháng (giao hội) mặt trăng, người Babylon đã cho ra đời một bộ lịch âm dương khá là chính xác, bằng việc cho xen kẽ những khoảng cố định vào 7 tháng trong chu kỳ 19 năm.
3. Chiêm tinh học Ai Cập
Vào khoảng thế kỷ thứ 3 cho đến thế kỷ thứ 2 TCN dưới thời Hy Lạp hóa (Hellenistic age), cả thiên văn toán học và tinh mệnh học du nhập từ Babylon về phía tây sang Hy Lạp ở phía đông Địa Trung Hải. Thời Hy Lạp hóa gần như là trùng khớp với khoảng thời gian 3 thế kỷ cuối TCN, khi mà Đế chế Ba Tư cũ bị Alexander đại đế thu phục và chịu sự cai trị của những người kế nhiệm, trong đó phải kể đến các vị vua Seleucid ở Syria và Lưỡng Hà, sau đó là Ptolemy ở Ai Cập và toàn bộ vùng được gọi là Cận Đông có tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp. Về sau, Lưỡng Hà được khôi phục bởi người Parthia, rồi sau đó lại bị Đế chế La Mã từ phía tây xâm lược, mãi cho tới khi triều đại của Cleopatra ở Ai Cập sụp đổ thì quyền lực chính trị của đế chế Graeco-Macedonia trên khắp một vùng rộng lớn mới thực sự kết thúc. Tuy nhiên, không phải nhờ văn hóa Hy Lạp mà các nền văn hóa bản địa này mới có thể phát triển mạnh mẽ song song. Trong số đó, nền văn hóa đóng vai trò quan trọng nhất trong lịch sử của chiêm tinh học là văn hóa Ai Cập.
Có lẽ do sự giao lưu khá dễ dàng ở đầu thời Hy Lạp hóa đã mở ra cơ hội tốt nhất và có lẽ là duy nhất ở thời cổ đại cho việc chuyển giao những tri thức thiên văn chuẩn xác từ phía đông sang phía tây. Có thể người phía đông đã mang những kiến thức đó sang phía Tây, cũng có thể là ngược lại, người phía tây sang học hỏi ở phương đông rồi mang tri thức theo về, hoặc cũng có thể tri thức được truyền thụ sang phía tây trong hành trang và tư duy của những người ở cả hai miền đông tây.
Với trình độ khoa học cao nhất, sự hiện diện của thiên văn toán học Babylon được thể hiện trong tác phẩm của Hipparchus vĩ đại (khoảng 150–125 TCN). Thực sự, thiên văn toán học đã trở thành trọng tâm trong toàn bộ tác phẩm của ông. Điều này giúp cho các mô hình hình học của thiên văn Hy Lạp trở nên đáng tin cậy hơn với độ chính xác cao hơn. Ở thời của ông, chỉ có phép toán số học của người Babylon và những ghi chép quan sát mới có thể cung cấp sự chính xác cần có. Quan điểm hiện nay cho rằng có lẽ những người Hy Lạp “với trình độ kỹ thuật khá cao”, cũng có thể là chính Hipparchus, “đã hợp tác với các nhà thiên văn người Babylon để trích ra báo cáo từ kho lưu trữ”.